Ma Thổi Đèn

Quyển 5 – Chương 18: Tranh khắc rồng




Chúng tôi lao vào hang chuột khổng lồ, giơ đèn lên soi chỉ thấy bốn phía xung quanh mình đều là gạch cổ, viên gạch rất lớn, hình dáng như phiến đá, ngay cả mái vòm trên đỉnh đầu cũng bằng gạch cổ, có điều đường hầm lát gạch cổ này xây rất giản dị, nhiều chỗ đá bị sụt lún hủy hoại. Vì thời gian, cộng với các hang hốc ngóc ngách của lũ chuột hoang cùng rễ cây bên trên đầm xuống, chỉ riêng đoạn đường hầm trước mắt chúng tôi thôi đã có trăm ngàn lỗ nhỏ, hoàn toàn không giống một đường hầm do con người kiến tạo. Trong bóng tối và hoảng loạn, chúng tôi cũng không thể nào phân biệt rõ xem rốt cuộc mình đang ở đâu nữa.

Trong đám rễ cây và bùn đất trên đỉnh đầu, có vô số sâu bọ và những búi trứng sâu trắng toát, chắc là vừa nãy bọn chuột chồng chất nhau lên là để ăn trứng sâu này đây. Lũ du diên kia tuy hung mãnh lại có chất độc, nhưng không giỏi đào đất, thể hình lại quá lớn để chui vào hang chuột. Nhưng lúc này cái hang lớn mà lũ chuột chiếm cứ đã bị sụt ra một lỗ lớn, nên lũ du diên lớn nhỏ đều ào ào túa ra lùng bắt bọn chuột hoang đang chạy tán loạn.

Để tránh bọn du diên hung hãn ấy, chúng tôi đành phải dần lùi sâu vào trong đường hầm thần bí này, khó khăn nhất là lão Dương Bì vẫn đang no trướng cả bụng lên, thần trí hoàn toàn mất hết, Tuyền béo muốn cõng cũng không không thể nào cõng nổi, đành phải cùng Đinh Tư Điềm kéo lê hai cánh tay ông già. Chẳng những thế, vật dụng chiếu sáng chỉ có mỗi ngọn đèn dầu cũ kỹ mờ mịt tôi đang cầm, căn bản chẳng thể nào chiếu xa quá năm bảy bước, vừa phải lần mò tiến lên, lại vừa phải dùng chân đá văng những con chuột dưới đất, bảo là chạy sâu vào bên trong đường hầm cũng không chính xác lắm, phải nói là “lết” vào bên trong mới đúng.

Vừa đi được vài bước, liền nghe lũ chuột phía sau lại nháo lên một chặp, nghĩ hẳn là đã có du diên chui vào đường hầm này rồi, tôi vội đưa mắt nhìn quanh, thấy phía trước có mấy phiến gạch cổ đã bị rễ cây chen xuống làm lỏng hết cả ra rồi, chỉ cần thêm một chút ngoại lực vào, đoạn đường hầm này chắc chắn sẽ sập xuống chứ chẳng nghi. Việc đã đến nước này chỉ còn cách xuất chiêu mạo hiểm, nếu bị chôn sống ở đây thì cũng đành chịu vậy thôi. Thế là tôi vội giục Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo lão Dương Bì đi nhanh lên, càng nhanh càng tốt, cứ mặc kệ động tĩnh phía sau, rồi tra thanh bảo đao Khang Hy vào vỏ, chĩa chuôi đao lên nhè mấy viên gạch trên đỉnh đầu mà vừa cậy vừa gõ.

Vừa nạy được hai viên gạch xuống, bùn đất và đá vụn bên trên liền rơi xuống rào rào, tôi không dám ở lại lâu, vội vàng nhảy ra xa. Bỗng nghe “ầm ầm” một tiếng, ngay sau đó nóc đường hầm đã sập xuống, đè chết vô số chuột lớn chuột nhỏ bên dưới. Bọn du diên kia tạm thời không vượt qua đây được rồi, tôi đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, rồi xoay nguời đuổi theo bọn Tuyền béo đã đi trước được một quãng.

Tuyền béo thấy phía sau có tiếng đất đá rào rào, liền hỏi tôi có phải đã chọc cho sập đường hầm rồi không. Tôi nói, đường quay lại coi như bị cắt đứt rồi, chỉ có thể hy vọng ở đầu bên kia có lối ra khác thôi. Trước tình cảnh ấy, ba người chúng tôi ít nhiều gì cũng hơi rối loạn, đường hầm này tối tăm mù mịt lại chẳng thấy tận cùng đâu, cũng chẳng rõ có lối ra nào khác hay không. Tuy rằng nơi này có rất nhiều “giặc mắt to” chạy ra chạy vào, nhưng cửa hang bọn “giặc mắt to” chui ra được, thì chúng tôi lại không chui ra được. Phải như bị chôn sống trong cái động chuột hôi thối bẩn thỉu này, thì thật cũng không khỏi chết quá uất ức rồi.

Ông nội tôi thời trước xem phong thủy mưu sinh, từng quen biết một vài nghệ nhân hành nghề đổ đấu trộm mộ. Tôi có nghe ông kể, nghề trộm mộ là cái nghề qua lại giữa hai giới Âm Dương, phàm đã làm nghề này đều là kẻ gan góc cùng mình, nhưng cũng có những sự việc khiến cho họ cực kỳ khiếp sợ, mà sợ nhất chính là bị chôn sống dưới lòng đất, đó là cái chết bi thảm nhất.

Có điều, trong những người làm nghề đổ đấu ấy, có Mô Kim hiệu úy rất giỏi xem tướng đất, có thể “ngoài nhìn hình núi, trong xét mạch đất”, dù là trên mặt đất hay dưới lòng đất, đều có thể phán đoán ra địa hình địa mạch. Trong mắt của Mô Kim hiệu úy, vũ trụ có cửa lớn đóng mở, núi sông có tính có tình, họ coi núi sông như một tồn tại có sinh mạng, “núi là cơ thể, đá là xương cốt, rừng là áo quần, cỏ cây là lông tóc, nước là huyết mạch, sương khói là thần thái, mây mù là khí sắc”, chỉ cần nắm được mệnh mạch của núi sông, thì cũng nhất định có thể tìm thấy “sinh môn” nơi tuyệt cảnh.

Thời đó tôi vẫn chưa hiểu được những bí thuật phong thủy thâm ảo ấy, chỉ nhớ ông nội đại khái từng nói như thế, trong lòng không khỏi thầm ngưỡng mộ Mô Kim hiệu úy. Chuyện trong thiên hạ phúc họa khổ lường, hung cát nan phân, nếu có Mô Kim hiệu úy ở đây, liệu họ có biết được con đường hầm tối đen như mực này thông đến đâu không nhỉ? Thậm chí tôi còn có cảm giác, đường hầm lát gạch cổ này rất giống “mộ đạo” trong các câu chuyện về giặc trộm mộ, không chừng ở tận cùng con đường này, sẽ có một cỗ quan tài lớn cũng nên.

Tôi vừa nghĩ ngợi lung tung vừa thay cho Đinh Tư Điềm, cùng với Tuyền béo đỡ lão Dương Bì. Đinh Tư Điềm cầm súng săn, giơ đèn dầu soi đường cho cả bọn, ba người lần mò chầm chậm tiến lên phía trước, tôi tình cờ nói ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu ấy ra với họ. Đinh Tư Điềm ngạc nhên nói: “Hồi trước tham gia hoạt động ‘nối liền’, cũng có nghe bạn kể chuyện phong thủy trộm mộ, lẽ nào tổ tiên nhà bạn làm nghề này thật?”

Không đợi tôi trả lời. Tuyền béo đã lên tiếng đáp thay: “Ông nội cậu Nhất này là đại địa chủ sau khi bị quần chúng cách mạng phát hiện, đã bị phê đấu phê điếc rồi giẫm đạp be bét nhừ tử ra rồi, lại còn chụp cho cậu ta cái mũ con hiền cháu thảo của giai cấp địa chủ, bằng không thì sao cậu ta lại không vào bộ đội chứ. Nhà tớ thì vừa khéo hoàn toàn trái ngược, thực ra tổ tiên nhà tớ đều là dân quê chân đất đi ăn xin ăn mày, nghèo như vậy lại còn không đủ vinh quang rồi chắc? Nhưng ông già tớ lại có vấn đề lịch sử vẫn chưa làm rõ ràng, đến giờ vẫn chưa xét minh bạch được là phản đối lịch sử hay phản đối hiện tại, kết quả là tớ cũng bị chụp cho cái mũ, là mầm mống của chủ nghĩa xét lại, mới chuyên thôi chứ chưa hồng, thế nên cũng không được vào bộ đội. Bạn nói xem, tớ đây một trái tim hồng sáng trong thế này, lẽ nào lại còn không rõ như ban ngày hay sao? Tiên sư cha bố, tớ đây có chọc vào ai đâu chứ?”

Lời của Tuyền béo chọc đúng vào chỗ đau chung, ba chúng tôi đều thần sắc ảm đạm. Tôi thầm nhủ, mấy chuyện chó chết này thì có gì hay ho mà nhắc lại chứ, nói càng nhiều càng khó chịu, phải mau chóng lảng sang chuyện khác mới được, vậy là bèn nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Ông nội tôi đúng là có mấy mẫu ruộng bạc màu, nhưng cũng đâu phải địa chủ địa chiếc gì. Mà ông cũng không làm nghề trộm mộ, chẳng qua chỉ quen biết với một số cao thủ đổ đấu, lại tận mắt trông thấy ‘bánh tông bự’ rồi mà thôi.” Tôi e hai người không hiểu tiếng lóng trong nghề, lại giải thích đổ đấu tức là trộm mộ, bánh tông là thi thể bên trong mộ phần. Nghe ông tôi bảo, thường thường vẫn nói trên đời có ba trăm sáu mươi nghề, nghề nào cũng có Trạng nguyên, nhưng thực ra các ngành nghề truyền thống có thể tự thành một hệ thống của Trung Quốc, tổng cộng chỉ có bảy mươi hai nghề, mỗi nghề đều có lai lịch truyền thừa và tổ sư gia, chẳng hạn như: đồ tể, thợ may, thợ mộc, trộm mộ, cướp đường..., trong đó nghề nào là lợi hại nhất có biết không? Có câu rất chuẩn rằng: “bảy mươi hai nghề, trộm mộ đứng đầu”, vì những tri thức, kỹ thuật, gan dạ, tay nghề mà nghề trộm mộ cần phải có, cùng với sự nguy hiểm cũng như hồi báo, đều vượt trên bảy mươi mốt nghề còn lại rất nhiều. Chẳng những vậy, người đời cũng công nhận “đổ đấu trộm mộ, Mô Kim đứng đầu”, vì vậy Mô Kim hiệu úy mới là vua trong các vua ngành nghề truyền thống Trung Quốc.

Tuyền béo chẳng hiểu gì nhưng lại cố giả vờ hiểu: “Ồ, nói vòng vo mãi thì ra cậu cảm thấy chúng ta đang đi vào trong một cái mộ cổ chứ gì? Thực ra tôi thấy trộm mộ cũng chẳng có gì đáng sợ, mộ cổ không phải là chỗ chôn người chết thôi sao, toàn là đám đế vương khanh tướng tài tử giai nhân của xã hội phong kiến, chẳng phải là đã bị đánh đổ hết rồi à?”

Đinh Tư Điềm cũng nói: “Đúng thế, các cuộc khởi nghĩa nông dân thời xưa, toàn là đến đào lăng tẩm của đế vương lên trước, điều này cũng thể hiện tinh thần vô úy và sự khinh miệt của giai cấp nông dân với vương quyền phong kiến, và khí khái quyết tâm thề không đội chung trời với giai cấp thống trị.” Có điều, tuy ngoài miệng Đinh Tư Điềm nói thế, nhưng dù sao cô cũng là con gái, dẫu có tham gia Hồng vệ binh, nhưng chung quy cũng không thể gan lớn tày trời như tôi và Tuyền béo được. Bởi thế, cô vẫn chưa thể khắc phục được tâm lý sợ hãi đối với mộ cổ, lại hỏi tôi xem trong những ngôi mộ cổ thì thường có gì?

Lúc mới vào địa đạo này tôi cũng có hơi hoảng, nhưng đi được một đoạn, thì đã dần dần thích ứng với hoàn cảnh bức bối, tối tăm trong đường hầm, lòng can đảm cũng tăng lên nhiều, thấy Đinh Tư Điềm hỏi trong mộ thường có gì, liền nửa đùa nửa thật đáp: “Chắc là giống trong hoàng cung ấy, có rất nhiều tượng điêu khắc, vòi phun nước gì gì đó.” Nói đoạn, lại sực nhớ đến chuyện gặp ma trong ngôi cổ mộ ở sâu trong núi Đại Hưng An Lĩnh, vậy là bèn thêm mắm dặm muối vào cho hai người kia tưởng tượng: “Những điêu khắc ấy toàn là hình các cô gái thời xưa, không những xinh đẹp yểu điệu, mà còn toàn hở mông không mặc quần áo gì, đều khắc từ đá Đại Lý hết, tớ đây tận mắt trông thấy rồi.”

Tuyền béo và Đinh Tư Điềm hoàn toàn không hiểu mấy chuyện này, cũng không biết tôi nói thật hay bốc phét, cứ mắt tròn mắt dẹt không nói được gì, tôi lại tiếp tục tán thêm: “Bây giờ phải xác định kỷ luật rõ ràng thôi, lát nữa ngộ nhỡ không may đúng là đã lạc vào mộ cổ thì chúng ta không thể hành sự bừa bãi theo cảm tính, cho dù trộm mộ cũng không được hủy hoại các di tích văn vật, nổ súng vung đao cũng không được nhằm vào các tượng lõa thể trên tường, đặc biệt là cậu đấy Tuyền béo, tuyệt đối không được tùy tiện sờ lung tung lên những bức tượng cung nữ lõa thể bằng đá Đại Lý đâu đấy, toàn là bánh tông để bẫy giai cấp vô sản chúng ta cả đó.”

Tôi nói bằng giọng cực kỳ trịnh trọng, dọa cho Tuyền béo sợ lắp ba lắp bắp: “Thề có Mao chủ tịch, tôi tuyệt đối không sờ, được rồi, chúng ta chỉ nhìn chứ không sờ, đứa nào sờ là con đứa kia... à, không đúng, chúng ta cũng là giai cấp vô sản, tại sao chúng ta lại không được sờ chứ?”

Lúc này Đinh Tư Điềm chợt lên tiếng xen vào: “Đồng chí Lenin, bạn chắc chắn cái hang toàn chuột là chuột này là một ngôi mộ cổ chứ?” Tôi nhún vai đáp lời: “Thực ra mình cũng không rõ, vừa nãy sợ mọi người căng thẳng nên mới nói linh tinh mấy câu cho yên tâm thôi, nói trắng ra, mình thấy chỗ này vừa có thể là mộ cổ lại vừa có khả năng không phải là mộ cổ. Đây rốt cuộc là nơi nào thì chỉ có trời mới hiểu, có quỷ ma mới biết.”

Tuyền béo tức tối nghiến răng kèn kẹt: “Thì ra lúc nãy cậu toàn nói nhăng nói cuội thôi hả, cái gì mà vừa có khả năng là, lại vừa có thể không phải hả?” Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đã bất giác đi tới cuối con đường hầm, chỗ này đã không còn những viên gạch lớn cổ phác, nứt vỡ toang toác ra nữa, mà là một hang động thiên nhiên hình vòm. Hang động này cũng không lớn lắm, chỉ khoảng hơn trăm mét vuông, vòng xung quanh là những cửa địa đạo, quy mô hình dáng đều tương đồng với đường hầm chúng tôi vừa chui vào. Người đứng ở đây, căn bản không thể phân biệt được phương hướng Đông Tây Nam Bắc.

Tôi và Tuyền béo đỡ lão Dương Bì đi một lúc lâu, cánh tay đã hơi tê mỏi, phát hiện ra nơi này không ngờ lại có rất nhiều lối rẽ, nhất thời cũng không biết phải tính sao, vậy là bèn đặt ông lão xuống trước. Lão Dương Bì đang mê man, miệng vẫn lắp bắp nói nhảm, tựa hồ như đang tiếc thương cho lù bò lũ ngựa. Một phen chạy loạn vừa nãy, có thể cũng giúp ông tiêu đi phần nào thức ăn trong bụng rồi.

Đinh Tư Điềm lo lắng giơ đèn lên quan sát, rầu rầu nói: “Thế này thì như là vào mê cung dưới đất rồi còn gì, có phải chúng ta đã vào trung tâm của mê cung rồi không, tại sao mọi đường hầm đều thông tới đây thế?”

Tôi xoa xoa cánh tay tê rần đảo mắt quan sát tứ bề xung quanh, cũng không biết đây là nơi nào, nhưng chắc chắn không phải mộ cổ, mà cũng không phải mê cung dưới lòng đất gì. Các đường hầm xung quanh hang động này tỏa ra khắp phía, tôi đã đếm thử, tổng cộng có chẵn mười cái, không hơn không kém. Càng quan sát, chúng tôi lại càng thấy bố cục của hang động này kỳ quái lạ thường, giữa hang có một tấm bình phong thiên nhiên bằng đá xanh, trông như một bức tường đá. Trong khoảng đất xung quanh tấm bình phong đá ấy, có chôn rất nhiều tảng đá lớn, hình dạng khác nhau, kích cỡ cũng bất đồng, chôn bừa bãi không theo quy luật gì hết, khiến chúng tôi chẳng thể nào nhìn ra được điều thâm ảo bên trong.

Tuyền béo vừa nhìn một cái đã nói ở đây chôn đá Đại Lý đấy à? Không phải nói có tượng đàn bà con gái bằng đá sao? Sao lại khắc thành hình củ khoai tây hết thế này? Tôi không thèm để ý đến lời của cậu ta, trong lòng không ngừng thắc mắc, kẻ nào ăn no rỗi hơi lại chôn nhiều đá tảng ở trong cái hang này làm gì nhỉ?

Tôi còn chưa hết ngạc nhiên, thì Đinh Tư Điềm đã không nén được sự tò mò, giơ đèn dầu bước lại gần bức tường đá trơn nhẵn quan sát thử, phát hiện ra trên tấm bình phong bằng đá xanh thiên nhiên ấy có khắc rất nhiều đồ án. Đây có vẻ như là một tấm bia đá được chôn một nửa dưới đất, vậy là cô vội vàng gọi tôi và Tuyền béo lại gần xem xét.

Trên mặt đá trơn nhẵn không có chữ nghĩa gì, nhưng hai mặt đều khắc những hình vẽ rất tinh tế, đã bị bong tróc hư tổn khá nhiều, màu sắc vốn có cũng mờ tịt đến độ gần như không còn gì. Có điều, tình trạng đó cũng không ảnh hưởng gì đến việc quan sát hình vẽ khắc trên mặt đá, chỉ hiềm là nội dung những hình vẽ này thể hiện thật quá đỗi kỳ lạ dị thường, khiến người ta khó thể nào tin nổi. Tôi chỉ liếc nhìn mấy cái, đã có cảm giác hơi thở mình trở nên nặng nhọc khó chịu.

Một mặt khắc hình đồi núi trập trùng, thung lũng ở giữa là rừng cây rậm rạp, nhìn đặc điểm địa hình ấy, hình như chính là khu vực động Bách Nhãn chúng tôi đang đứng đây. Xung quanh khu đồi núi vẽ một cái bóng đen hình rồng, trông như thể một con rồng đen nhe nanh múa vuốt nuốt lấy người và súc vật quanh đấy. Nghĩ đến đàn bò và lũ chim nhạn không dưng mất tích, chúng tôi đều biêt nội dung khắc trên phiến đá này không phải là giả, chẳng qua là, có lẽ người xưa khi điêu khắc nên bức tranh này cũng chỉ biết vùng quanh đây có người và súc vật mất tích một cách thần bí, mà không hiểu được điều bí ẩn bên trong, thành thử đã hư cấu thành một bóng đen hình rồng ẩn hiện trên bầu không như vậy.

Lúc trên thảo nguyên, chúng tôi thấy bầy nhạn biến mất trong tầng mây, sau đó liền cảm thấy hai tai ù ù đau nhức, nếu không phải mấy con ngựa cảnh giác, sợ rằng giờ đây mười phần đến tám chín là đã bị cái bóng hình rồng trong tranh ấy nuốt mất rồi. Nhưng lúc ấy bốn người tám con mắt, rõ ràng đều thấy trên thảo nguyên thoáng đãng mênh mông chẳng có gì cả, tại sao mắt thường lại không thấy nó chứ? Cái bóng hình con rồng này rốt cuộc đại biểu cho bí mật gì? Lẽ nào là vong linh của một con rồng thời cổ tác yêu tác quái? Người xưa để lại ám thị thần bí thế này, hậu nhân chúng tôi thật khó mà nắm bắt được chân tướng.

Tuyền béo nhìn kiểu cưỡi ngựa xem hoa, chẳng hề cảm thấy những hình khắc cổ xưa trên bức vách đá này có gì đặc biệt, tùy tiện liếc mấy cái rồi lấy trong túi ra một điếu thuốc hiệu Tân Công nhăn nhúm, ngồi xuống bên cạnh lão Dương Bì nghỉ ngơi hút thuốc.

Đinh Tư Điềm còn tò mò hơn cả tôi, nhìn những hình vẽ thần bí trên bức vách, trong lòng cô chỉ toàn nghi vấn, liền hỏi tôi có suy nghĩ gì? Tôi nói, đầu tiên tôi không tin trên đời này có rồng cho lắm, tuy thời xưa có rất nhiều sự kiện nhìn thấy rồng, nhưng đại bộ phận toàn chỉ là những chuyện bịa đặt nói không thành có. Thời tôi học cấp II, còn nhớ có lần đã xảy ra vụ chấn động suốt một thời gian dài, nghe đồn dân trong núi đào giếng, đào được một con rồng đang thoi thóp. Lúc ấy có rất nhiều người vác dao vác kiếm đến cắt thịt rồng, lại còn có lời kể rằng, cắt thịt rồng cũng được, mang về nhà ăn cũng được, nhưng lúc cắt thì tuyệt không được nhắc đến chữ “rồng”, hễ nhắc đến chữ “rồng”, trên trời lập tức sẽ có mây mù sấm chớp, kẻ nào lỡ lời ắt sẽ bị sét đánh chết ngay tại chỗ. Lại còn nghe đâu rằng, những người tuổi rắn tuổi rồng đều không được đến xem, tóm lại là chuyện gì cũng có hết. Về sau thì chân tướng được chứng thực, cái gọi là rồng ấy, chẳng qua chỉ là một con trăn lớn bị thương lúc người dân kia đào giếng mà thôi.

Vách đá lớn có khắc hình rồng này không hiểu là di tích từ triều nào đại nào thời xa xưa, xem ra truyền thuyết về yêu long ăn thịt người và gia súc ở vùng phụ cận động Bách Nhãn này của dân du mục tuyệt đối không phải là vô căn vô cứ, chó đâu có sủa chỗ không người. Chỉ là, tôi cảm thấy đó rất có khả năng là một hiện tượng tự nhiên cực kỳ hiếm gặp, thời bấy giờ vẫn chưa được người đời hiểu hết ngọn ngành. Nhưng rốt cuộc là lực lượng gì mới có thể làm cho sinh linh tan biến đi trong vô hình vô ảnh như vậy? Dựa vào tôi và Đinh Tư Điềm, làm sao có thể tham thấu được huyền cơ trong đó, phân tích bừa bậy mấy câu đều thấy chẳng hợp lý gì cả, vậy là đành bỏ đấy.

Đinh Tư Điềm đi sang phía bên kia bức tường, quan sát hình khắc trên đó. Nghi vấn trong đầu mỗi lúc một lớn hơn, tôi không đi theo cô ấy sang ngay, mà quay lại chỗ Tuyền béo xin điếu thuốc. Loại thuốc Tân Công rẻ tiền này là do bọn tôi đem con Hoàng tiên cô bắt được đi đổi lấy, chất lượng cực kém, mà lại còn nặng, rất dễ sặc. Đã vậy, chúng tôi lại tiếc rẻ không nỡ hút luôn, còn trộn thêm một nửa lá khô vào sợi thuốc, một điếu xẻ thành hai, hút một hơi liền cảm thấy thần hồn điên đảo, như thể vừa rơi vào giữa bãi sương mù rộng năm dặm vậy.

Tôi rít hai hơi thuốc, cảm thấy đầu óc tỉnh táo hơn nhiều, bèn đi tới bên cạnh Đinh Tư Điềm, cùng cô quan sát hình khắc ở mặt bên kia tấm bình phong đá, hy vọng là có nội dung gì đấy hữu dụng một chút. Nhưng vừa đứng vững, mới ngước nhìn lên một cái, điếu thuốc trộn lá cây trên tay tôi liền suýt chút nữa rơi xuống đất. Phía bên này, không ngờ lại có hình khắc của Hoàng tiên cô!


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.